NGÀNH CÔNG NGHIỆP MÁY MÓC VÀ THIẾT BỊ VIỆT NAM: XU HƯỚNG VÀ CƠ HỘI

09/03/23

Ngành công nghiệp máy móc và thiết bị của Việt Nam đã và đang tăng trưởng đáng kể, góp phần tăng GDP và các ngành công nghiệp phụ.

Lĩnh vực máy móc và thiết bị của Việt Nam đã mở rộng đáng kể trong thập kỷ qua. Điều này được chứng minh bằng doanh thu thuần được ghi nhận bởi các công ty hoạt động trong ngành này tăng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 14,3% từ năm 2010 đến năm 2019. Cho đến năm 2020, có hơn 2.200 công ty chuyên sản xuất máy móc và thiết bị tại Việt Nam , đạt tổng doanh thu 4,6 tỷ đô la Mỹ.

Mặc dù có một thị trường đầy hứa hẹn, các nhà sản xuất máy móc trong nước đã không thể đáp ứng nhu cầu thị trường. Theo Hiệp hội Công nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI), chỉ 32% nhu cầu được cung cấp bởi các công ty trong nước. 68% nhu cầu thị trường còn lại được cung cấp bởi các sản phẩm nhập khẩu do nhu cầu lớn và công nghệ sản xuất lạc hậu của các nhà cung cấp trong nước.

Thị phần chi phối của các nhà cung cấp máy móc và thiết bị nước ngoài tại Việt Nam vẫn ổn định trong thập kỷ qua. Năm 2021, giá trị nhập khẩu máy móc, thiết bị đạt 46,3 tỷ USD, tăng 24,3% so với năm trước.

Các nhà cung cấp máy móc chính cho Việt Nam là các nước châu Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Những công ty này chiếm khoảng 70% nguồn cung cấp máy móc nước ngoài tại thị trường Việt Nam do giá cả cạnh tranh và sở thích của người tiêu dùng. Các nhà xuất khẩu đáng chú ý khác là các quốc gia ASEAN bao gồm Thái Lan, Malaysia và Indonesia cũng như các quốc gia phương Tây như Đức, Mỹ và Ý.

Cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài trong các ngành công nghiệp lớn

Máy móc nông nghiệp

Nông nghiệp luôn là một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam, đóng góp tới 12,4% GDP của cả nước vào năm 2021. Tuy nhiên, khoảng 30% trang trại ở Việt Nam vẫn chưa được cơ giới hóa.

Trong những năm gần đây, lĩnh vực này đã chứng kiến ​​xu hướng hội tụ của các trang trại quy mô nhỏ phân tán sang các doanh nghiệp quy mô lớn tập trung với sự tập trung ngày càng tăng vào cơ giới hóa và tự động hóa. Cùng với sự gia tăng dân số, đô thị hóa và nhu cầu năng suất cao hơn với diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp, nhu cầu về máy móc nông nghiệp dự kiến ​​sẽ tăng mạnh trong những năm tới.

Trong khi đó, Việt Nam chỉ tự túc được 30-40% máy móc nông nghiệp, còn lại chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc và Nhật Bản. Điều đó cho thấy, phân khúc sản xuất máy móc nông nghiệp đang phát triển nhanh chóng và đã phần nào bù đắp khoảng cách giữa nguồn cung trong nước và nhu cầu thị trường. Giá trị nhập khẩu của các sản phẩm chính, bao gồm máy kéo, máy làm đất, trồng trọt và thu hoạch, đã giảm với tốc độ CAGR là 13,5% trong giai đoạn 2016 đến 2020.

Các doanh nghiệp trong nước đóng vai trò quan trọng trong phân khúc này do các công ty này phụ thuộc nhiều vào bán hàng trực tiếp hơn là phân phối sản phẩm thông qua đại lý và nhà phân phối bên thứ ba. Ngoài ra, các công ty Việt Nam có xu hướng hiểu rõ hơn và nắm bắt được nhu cầu của nông dân địa phương.

Bên cạnh việc sản xuất và phân phối tại Việt Nam, cơ hội mới cho các thương hiệu máy móc nước ngoài nằm ở việc chuyển giao công nghệ cho các công ty địa phương và tuyển dụng theo yêu cầu tại một khu vực có mật độ canh tác cao.

Một mô hình kinh doanh mới nổi khác là thuê máy móc nông nghiệp theo yêu cầu vì việc sản xuất máy móc nông nghiệp tại địa phương là không đủ. Các hợp tác xã nông nghiệp và doanh nghiệp tư nhân là những người cung cấp máy móc cho thuê. Việc làm đất, thu hoạch, tuốt lúa, sấy khô, bảo quản ngũ cốc và vận chuyển được đảm nhận bởi các công ty cung cấp dịch vụ thuê mướn. Các doanh nghiệp này chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng.

Máy móc công nghiệp

Gần đây, Việt Nam trở thành điểm đến sản xuất thay thế lớn cho các doanh nghiệp đang tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng trong bối cảnh bất ổn do đại dịch và chiến tranh thương mại Mỹ-Trung gây ra .

Năm 2020, Việt Nam có khoảng 110.000 doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, tăng khoảng 2,5 lần so với năm 2010. Doanh thu thuần của ngành sản xuất tăng từ 100 triệu USD năm 2010 lên gần 450 triệu USD năm 2019.

Tuy nhiên, khảo sát của Tổng cục Thống kê về điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam năm 2021 cho thấy dây chuyền sản xuất cũ và kém phát triển của khoảng 20% ​​doanh nghiệp công nghiệp có ảnh hưởng bất lợi đáng kể đến hoạt động kinh doanh của họ.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng bị cấm nhập khẩu máy móc đã qua sử dụng trên 10 năm theo Nghị định số 18/2019/QĐ/TTg về nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng.

Cùng với sự gia tăng số lượng doanh nghiệp mới tham gia thị trường, nhu cầu về máy móc công nghiệp mới ngày càng tăng, đặc biệt là trong ngành thực phẩm, dược phẩm, nhựa và hóa chất.

CNC-VINA thành lập năm 2007, là một trong những công ty Việt Nam đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực chế tạo máy tự động. Khách hàng của chúng tôi đến từ nhiều ngành công nghiệp sản xuất khác nhau như: ngành công nghiệp ô tô, xe máy, ngành điện tử, ngành may, ngành thực phẩm và cung cấp dây chuyển lắp ráp – kiểm tra, dây chuyền sản xuất, dây chuyền tích hợp robot, dây chuyền sơn.

Trong tương lai, phân khúc hứa hẹn nhất cho các doanh nghiệp nước ngoài là robot và tự động hóa. Theo khảo sát của Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), từ năm 2018 đến năm 2020, 67% nhà đầu tư nước ngoài và trong nước đã tự động hóa một phần hoạt động của họ, trong khi 75% có kế hoạch tự động hóa các nhiệm vụ mới trong ba năm tới.

Năm 2021, thị trường robot và tự động hóa tại Việt Nam ước tính trị giá 184,5 triệu USD. Thị trường bị chi phối bởi các thương hiệu nước ngoài, bao gồm ABB, Yaskawa, Fanuc, Kawasaki, Kaku, Universal Robot, v.v. Khách hàng của những thương hiệu hàng đầu này tại Việt Nam hầu hết là các tập đoàn có vốn đầu tư nước ngoài và tư nhân quy mô lớn có đủ ngân sách để đầu tư vào tự động hóa . Họ hợp tác chặt chẽ với các nhà phân phối và mạng lưới đại lý được ủy quyền tại Việt Nam để mở rộng dấu ấn của mình.

Máy móc xây dựng

Thị trường thiết bị xây dựng Việt Nam đã phát triển trong những năm gần đây, chủ yếu nhờ vào việc mở rộng các dự án xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng.

Tính đến năm 2020, có hơn 91.000 nhà thầu đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó khoảng một nửa chuyên về xây dựng nhà ở. Tuy nhiên, Việt Nam không có năng lực sản xuất thiết bị xây dựng tiên tiến và do đó hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào máy móc nhập khẩu.

Việt Nam chủ yếu nhập khẩu máy móc từ Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ với các thương hiệu nổi tiếng như Komatsu (Nhật Bản), Hitachi (Nhật Bản), Kobelco (Nhật Bản), Doosan (Hàn Quốc), Hyundai (Hàn Quốc), Daewoo (Hàn Quốc), và Caterpillar (Mỹ).

Xét về loại thiết bị, thiết bị làm đất dẫn đầu thị trường thiết bị xây dựng Việt Nam, chủ yếu là do việc mở rộng cơ sở hạ tầng công cộng của đất nước. Cần cẩu và thiết bị xử lý vật liệu cũng đang tăng trưởng trên thị trường.

Nhìn chung, thị trường thiết bị xây dựng Việt Nam đặc biệt hấp dẫn đối với các doanh nghiệp cho thuê máy móc. Thiết bị mới đi kèm với khoản đầu tư đáng kể trong khi thuê máy móc đã qua sử dụng giúp giảm đáng kể đầu tư cũng như chi phí vận chuyển, lưu kho, lãi suất cho khoản vay, đăng ký, bảo hiểm và thuế đối với thiết bị mới cho các nhà thầu.

Các yếu tố thành công chính của các công ty cho thuê nước ngoài trên thị trường bao gồm chiến lược giá phù hợp, danh mục sản phẩm đa dạng và cập nhật, đội ngũ điều hành có trình độ và quan hệ đối tác chặt chẽ với các bên liên quan khác trên thị trường.

 

Góp ý với chúng tôi